Trung tâm Môi trường Công nghiệp nhiệt liệt hưởng ứng ngày Môi trường Thế giới năm 2023 với chủ đề “Chung tay đánh bại ô nhiễm từ rác thải nhựa” (Beat plastic polution)

Hình ảnh

Thông tin cần biết

Thống kê truy cập

Online: 4
Truy cập: 4.356.169

Kiểm toán chất thải và một số giải pháp áp dụng tại Việt Nam

Thứ Sáu, 06 Tháng Bảy 2012 2:23 CH

TS. Nguyễn Trung Thắng Nguyễn Ngọc Tú Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường

Thời gian qua, mặc dù đã tích cực thực hiện nhiều biện pháp, nhưng xu hướng ô nhiễm môi trường ở nước ta vẫn tiếp tục gia tăng. Nguyên nhân là do các giải pháp phòng ngừa và kiếm soát ô nhiễm chưa được thực hiện một cách hiệu quả và đồng bộ. Công tác quản lý chất thải ở các cơ sở sản xuất mới chỉ tập trung vào xử lý ở “cuối đường ống”, mà chưa chủ trọng đến các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn tại nguồn. Một trong những công cụ để kiểm soát, giảm thiểu phát sinh chất thải gây ô nhiêm môi trường trong các cơ sở sản xuất là kiểm toán chất thải (KTCT). Bài viết này sẽ giới thiệu về KTCT và một số giải pháp triển khai, áp dụng ở nước ta.

Kiểm toán chất thải là gì?Cùng với sản xuất sạch hơn, KTCT là công cụ quản lý môi trường nhằm giảm thiểu và ngăn ngừa ô nhiễm ngay từ quá trình sản xuất tại cơ sở công nghiệp. KTCT bao gồm việc rà soát, kiểm tra các quá trình sản xuất, xác định nguồn thải và khối lượng chất thải, tính toán cân bằng vật chất, xác định các vấn đề trong vận hành sản xuất, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm giảm thiểu phát sinh chất thải ra môi trường. Có thể nói, KTCT là một lĩnh vực chuyên sâu của kiểm toán môi trường (KTMT), được tiêu chuẩn hóa bằng ISO 14010 và ISO 14011:1996.

Mặc dù, được thể hiện khác nhau ở nhiều nước, song một quy trình KTCT thường được thực hiện với các bước: Khảo sát quá trình, thu thập số liệu về đầu vào, đầu ra của các công đoạn sản xuất (nguyên liệu, năng lượng, nước và sản phẩm); Xác định loại hình, nguồn, khối lượng chất thải; Nghiên cứu tính toán cân bằng vật chất; Xác định các nguyên nhân gia tăng chất thải; Nghiên cứu, đề xuất và xác định hiệu quả kinh tế của các giải pháp giảm thiểu chất thải; Thực hiện các giải pháp giảm thiểu phát sinh chất thải.

KTCT có thể do một nhóm kiểm toán độc lập, hoặc cũng có thể do chính bản thân doanh nghiệp thực hiện, với sự tham gia của một đơn vị quan trắc, phân tích môi trường. Các yếu tố cần thiết cho việc thực hiện thành công KTCT tại cơ sở công nghiệp bao gồm: Sự cam kết hợp tác, quyết tâm cải thiện ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp; Xác định quy mô, trọng tâm của kiểm toán; Đề xuất các giải pháp khả thi, đảm bảo tính kinh tế khi thực hiện.

Nếu thực hiện KTCT tốt thì không chỉ giảm thiểu việc phát sinh chất thải ra môi trường, giảm thiểu ô nhiễm mà còn tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, nước, giảm sự lãng phí tài nguyên, đem lại giá trị kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất và năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Đặc biệt, thực hiện KTCT còn góp phần giảm phát thải khí nhà kính, hạn chế biến đổi khí hậu hiện là vấn đề nóng trên thế giới.

Áp dụng KTCT ở một số nước trên thế giới

Từ năm 1980, trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu và ứng dụng về KTCT. Quy trình KTCT đối với từng ngành đã được lập, nhiều tài liệu, sách về KTCT đã được xuất bản.

Ở Ôxtrâylia, KTCT trong các ngành công nghiệp đã được giới thiệu như là một công cụ hỗ trợ cho việc quản lý chất thải, bên cạnh các công cụ khác như sản xuất sạch hơn và đánh giá vòng đời sản phẩm. Cục Các ngành công nghiệp cơ bản, Công viên, Nước và Môi trường của bang Tasmania, Ôxtrâylia đã khuyến cáo các doanh nghiệp nên sử dụng KTCT, với các nội dung như xác định các nguồn thải, số lượng và các loại chất thải được tạo ra; Xác định nguyên nhân làm gia tăng chất thải; Thiết lập các mục tiêu/giải pháp và thứ tự ưu tiên cho việc giảm phát sinh chất thải.

Một số ngành công nghiệp đặc thù gây tổn hại tới môi trường như khai thác mỏ, sản xuất hóa chất thì được khuyến khích tuân thủ theo các Quy chế về Thực hành quản lý môi trường tốt nhất (BPEM), được chính quyền Ôxtrâylia thiết kế riêng cho mỗi ngành. Ví dụ, đối với ngành khai thác mỏ đã được Cục Bảo vệ môi trường Úc ban hành quy chế năm 1995, trong đó bao gồm quy định về KTCT và nộp báo cáo kiểm toán hàng năm.

Bỉ, là thành viên của Cộng đồng châu Âu (EU) nên phải tuân theo những quy định về môi trường do EU ban hành, trong đó có Quy trình kiếm toán quản lý sinh thải (EMAS), năm 2001. Đến năm 2004 đã có 150 doanh nghiệp ở các tỉnh thuộc vùng Flanders của Bỉ tham gia thực hiện EMAS và sau đó là 22 doanh nghiệp khác. Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp tự nguyện áp dụng các quy trình này không chỉ với mục đích nhằm đạt được các chứng chỉ môi trường. Một trong những công ty đầu tiên của Bỉ thực hiện KTCT là Công ty Shred it Belgium. Công ty này, năm 2007, đã tái chế 1.650 tấn chất thải và thực hiện tính toán “Dấu chân các-bon”, làm giảm lượng cacbon từ hoạt động vận tải, trở thành Công ty đầu tiên của Bỉ đạt C02 trung tính.

Tại Canada, theo quy định Ontario 102/94 của Bộ Môi trường và Năng lượng, các cơ sở sản xuất bắt buộc thực hiện KTCT. Quy định này nêu rõ, các cơ sở giáo dục, bệnh viện, nhà nghỉ, khách sạn, cơ sở sản xuất, các tòa nhà công sở, nhà hàng và các cơ sở kinh doanh phải thực hiện chương trình giảm thiểu chất thải, bao gồm 4 bước trong đó có thực hiện KTCT. Thời gian một báo cáo KTCT phải được lưu trữ dưới dạng file ít nhất 5 năm và phải chỉ ra được loại vật liệu hoặc sản phẩm nào được doanh nghiệp sử dụng là vật liệu hoặc sản phẩm tái chế. Bên cạnh đó, Canada rất chú trọng tới việc xem xét quy trình sản xuất của doanh nghiệp như là một thông tin đầu vào để thực hiện kiểm toán, từ đó đề xuất các khâu giảm thiểu chất thải cũng như nguyên liệu sản xuất.

Ở Ấn Độ, khái niệm KTMT trong ngành công nghiệp chính thức được giới thiệu từ tháng 3/1992 với mục đích chung là giảm sự lãng phí tài nguyên và thúc đẩy sử dụng công nghệ sạch nhằm giảm thiểu phát thải. Bộ Môi trường và Rừng đã ban hành thông tư số GSR 329(E) vào tháng 3/1992, đưa ra yêu cầu bắt buộc nộp Báo cáo KTMT hàng năm đối với các cơ sở công nghiệp, trong đó phải thể hiện các thông tin về quản lý từng nguồn thải. Để thúc đẩy hoạt động KTMT, Ban Kiểm soát ô nhiễm quốc gia (CPCB) đã tổ chức tập huấn, đào tạo, thực hiện các mô hình trình diễn và xây dựng hướng dẫn KTMT cho các ngành công nghiệp ô nhiễm cao như thuốc bảo vệ thực vật, giấy và bột giấy, đồ uống, dệt nhuộm.

Đối với Thái Lan, hoạt động KTCT đã nhận được sự quan tâm của nhiều tổ chức và doanh nghiệp. Viện Công nghệ châu Á (AIT) đã đưa nội dung này vào đào tạo từ những năm đầu thập kỷ 90. Các dự án KTCT cũng được thực hiện ở nhiều nhà máy công nghiệp thuộc các lĩnh vực khác nhau như sản xuất bánh kẹo, tinh bột, giấy, cao su…

Ở Singapo, KTCT được cụ thể hóa như là một chiến lược tối thiểu hóa phát sinh chất thải, bao gồm 8 bước: Cam kết của lãnh đạo; Lựa chọn nhóm/bộ phận làm việc về tối thiểu hóa phát sinh chất thải; Thực hiện kiểm toán chất thải; Xác định chi phí của việc giảm phát sinh chất thải; Phát triển, xây dựng các phương án giảm thiểu chất thải; Đánh giá khả năng tiết kiệm và sắp xếp ưu tiên các lựa chọn/giải pháp; Xây dựng kế hoạch giảm thiểu chất thải; Thực thi và cải tiến kế hoạch.

Hiện nay, có nhiều doanh nghiệp đã thực hiện chiến lược tối thiểu hóa chất thải như: Công ty TNHH Baxter Healthcare Pte, Công ty TNHH Chevron Oronite, Công ty TNHH IMM Singapo Pte, Công ty TNHH Kyoei Engineering Singapo Pte, Công ty TNHH Sony Display Device Pte, Công ty TNHH Tetra Pak Jurong Pte….

Ở Trung Quốc, Nhật Bản, Ba Lan và nhiều nước khác, các hoạt động KTCT được lồng ghép trong các công cụ kiểm soát và giảm thiểu ô nhiễm như sản xuất sạch hơn, KTMT, đánh giá vòng đời sản phẩm. Mục tiêu chính của các công cụ này là nhằm hướng đến việc giảm thiểu phát sinh, kiểm soát ô nhiễm do chất thải gây ra.

Tình hình nghiên cứu và áp dụng KTCT ở ViệtNam

Ở Việt Nam hiện nay, KTMT và KTCT đã được đưa vào giảng dạy ở một số trường đại học và cao đẳng trong cả nước, song chưa nhiều và mới chỉ dừng ở các vấn đề tổng quát mà chưa đi sâu vào các lĩnh vực cụ thể. Việc áp dụng KTCT trong các cơ sở sản xuất cũng mới dừng ở một vài dự án thí điểm như “Kiểm soát ô nhiễm môi trường” của UNDP năm 1995 ở một số nhà máy tại Việt Trì và Biên Hòa; đề tài “Điều tra, đánh giá đề xuất việc KTCT công nghiệp tại 5 khu công nghiệp, khu chế xuất” của Cục Bảo vệ môi trường năm 2005; đề tài “Nghiên cứu áp dụng KTCT trong công nghiệp quốc phòng” của Trung tâm Khoa học, Kỳ thuật và Công nghệ Quân sự (Bộ Quốc phòng) năm 2004; đề tài “KTCT tại các làng nghề tái chế kim loại và đề xuất một số biện pháp giảm thiểu ô nhiễm” của Viện Khoa học Công nghệ Môi trường -Đại học Bách khoa Hà Nội năm 2005; Nghiên cứu và áp dụng thí điểm về KTCT cho Nhà máy giầy Thượng Đình, Hà Nội và Công ty TNHH Thuộc da Đông Hải do Tổng cục Môi trường thực hiện năm 2008.

Nguyên nhân của tình trạng số lượng doanh nghiệp áp dụng KTCT cũng như sản xuất sạch hơn (ISO 14000) còn thấp là do Nhà nước chưa có những chính sách cụ thể để trực tiếp hoặc gián tiếp bắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện. Ngoài ra, nhận thức và hiểu biết về KTCT và các lợi ích mà nó mang lại cũng chưa cao. Các quy trình KTCT chưa được nghiên cứu, xây dựng cho các ngành công nghiệp như ở một số nước trên thế giới. Các sổ tay hướng dẫn kỳ thuật về KTCT chưa được ban hành và phổ biến rộng rãi trong cộng đồng doanh nghiệp. Bên cạnh đó, ở nước ta cũng chưa có các nghiên cứu đề xuất chính sách khuyến khích áp dụng KTCT trong quản lý môi trường.

Một số giải pháp

Trong bổi cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các nguồn tài nguyên đang bị khai thác, sử dụng không bền vững, biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, trên thế giới đã hình thành trào lưu tăng trưởng xanh với mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn với bảo vệ môi trường và giảm nhẹ biến đổi khí hậu. ơ nước ta, với chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, ô nhiễm môi trường do chất thải đã và đang ngày càng gia tăng. Vì vậy, việc áp dụng các công cụ phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm, trong đó có KTCT đang là một yêu cầu cấp thiết.

Để đẩy mạnh việc triển khai áp dụng KTCT, về phía các cơ quan quản lý Nhà nước cần thực hiện một số giải pháp sau:

Xây dựng sổ tay hướng dẫn KTCT cho ngành công nghiệp nói chung và cho một số ngành công nghiệp nói riêng. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục, nâng cao nhận thức về KTCT. Khuyến khích, hỗ trợ phát triển dịch vụ tư vấn về KTCT.

Nghiên cứu xây dựng và ban hành chính sách khuyến khích/bắt buộc áp dụng KTCT trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đảm bảo một lộ trình nhất định để các doanh nghiệp có thể hiểu rõ các quy định cũng như có phương án chuyển đổi, thay thế và điều chỉnh hoạt động của mình cho phù hợp với điều luật quy định.

Cần có các chế tài khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp tự nguyện áp dụng và cơ chế thúc đẩy hoạt động KTCT thông qua cạnh tranh theo hình thức dịch vụ.

Xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về chất thải và KTCT. Áp dụng các tiêu chuẩn mà các nước đã áp dụng nhằm thống nhất quản lý chất thải.

Đối với các doanh nghiệp, cần chủ động nghiên cứu, tìm hiểu và áp dụng KTCT trong các hoạt động sản xuất của mình để hướng tới bảo vệ môi trường và tiết kiệm các chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh.

Đe góp phần thực hiện các giải pháp này, từ năm 2009, Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và môi trường đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường giao tổ chức triển khai thực hiện Dự án “Áp dụng thử nghiệm KTCT trong quản lý môi trường ngành công nghiệp Việt Nam “, thực hiện trong 3 năm (2Ỏ09 – 2012). Dự kiến, Dự án sẽ nghiên cứu, xây dựng sổ tay KTCT cho ngành công nghiệp nói chung và 10 ngành công nghiệp nói riêng, đồng thời hướng tới xây dựng chính sách yêu cầu các doanh nghiệp phải triển khai KTCT, sử dụng KTCT như một công cụ kiểm soát ô nhiễm trong thời gian tới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Kiểm toán môi trường, Phạm Thị Việt Anh, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2006

Giáo trình KTCTcông nghiệp, Trịnh Thị Thanh, Nguyễn Thị Hà (2000), NXB Đại học quốc gia Hà Nội.

Department of Primary Industries, Parks, Water and Environment, Tasmania, Australia, 2010.

Australia and New lealand Standards (AS/NZS), 2003, ISO 19011:2003 Guidelines for Qualỉty management systems auditing and Environmental management systems auditing.

European Commission, LIFE HIprogramme, 2000-2004, A sustainable approach for the envỉronment LIFE and the Community Eco-Managemení and Audit Scheme (EMAS).

Flanders Investment and Trade, 2008

Ontario Waste Management Cooperation, ỉ993, Industrial Waste Audit and Reduction Manual.

Ministry of Environment and Energy, July 2008, A Guide to Waste Audits and Waste Reduction Work Plansfor Industrial, Commercial and Institutionaì Sectors.

INTOSAI, 2004. EnvironmentalAudit andRegularityAuditing.

lũ. INTOSAỈ and EUROSAI, 2009. Environmental Auditing Guidelines. Joint seminar ôn raising awareness ofISSAIs in Warsaw, Poland.

Auditing changes in Japan:/rom the minor to the mạịor, Hiroshi Yoshimi. Critical Perspectives ôn Accounting (2002)

Environmental auditing programme in India, R.s. Mahwar” , N.K. Verma, s.p. Chakrabarti, D.K. Biswas. The Science ofthe TotalEnvironment204 (1997)

WASTE AUDIT ỈN A TAPIOCA STARCH MILK PROCESSING FACTORY. Rames Seejuhn.AsianInstituteofTechnology.2002n

 

Các tin khác
Đăng nhập
Tên đăng nhập:
Mật khẩu đăng nhập:
Map
MapBox
Tư vấn trực tuyến
SKYPE

Bộ phận kỹ thuật

Bộ phận kinh doanh

khám phá
Quảng cáo
VILAS 246
Vim