Trung tâm Môi trường Công nghiệp nhiệt liệt hưởng ứng ngày Môi trường Thế giới năm 2023 với chủ đề “Chung tay đánh bại ô nhiễm từ rác thải nhựa” (Beat plastic polution)

Hình ảnh

Thông tin cần biết

Thống kê truy cập

Online: 17
Truy cập: 4.452.429

Thực trạng sử dụng, quản lý chất thải túi nilon ở Việt Nam và định hướng giải pháp từ góc độ kinh tế

Thứ Sáu, 06 Tháng Bảy 2012 2:14 CH

PGS.TS. Nguyễn Danh Sơn Viện Phát triển bền vững Bắc bộ Tạp chí môi trường số 11

Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa – đô thị hóa (CNH – ĐTH) và cùng với nó là sự gia tăng chất thải sinh hoạt, trong đó có chất thải túi nilon. Các bao bì nilon hiện đang sử dụng ở nước ta và nhiều nước trên thế giới thuộc loại khó và lâu phân hủy. Những đặc điểm ưu việt trong sản xuất và tiêu dùng túi nilon đã làm lu mờ các tác hại đối với môi trường khi thải bỏ. Đó cũng là lý do chính yếu giải thích tại sao túi nilon lại được dùng rất phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới bất chấp những cảnh báo về tác hại to lớn và nhiều mặt tới môi trường, sức khỏe và trở thành vấn nạn trong quản lý môi trường ở hầu hết các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

1. Thực trạng và vấn đề quản lý chất thải túi nilon ở nước ta

Theo các nhà khoa học, túi nilon được làm từ những chất khó phân hủy, khi thải ra môi trường phải mất từ hàng chục năm cho tới một vài thế kỷ mới được phân hủy hoàn toàn trong tự nhiên. Sự tồn tại của nó trong môi trường sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới đất và nước bởi túi nilon lẫn vào đất sẽ ngăn cản ôxy đi qua đất, gây xói mòn đất, làm cho đất không giữ được nước, dinh dưỡng, từ đó làm cho cây trồng chậm tăng trưởng. Nghiêm trọng hơn, môi trường đất và nước bị ô nhiễm bởi túi nilon sẽ ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới sức khỏe con người. Trong thực tế, nhiều loại túi nilon được làm từ dầu mỏ nguyên chất khi ngấm vào nguồn nước sẽ xâm nhập vào cơ thể người gây rối loạn chức năng và dị tật bẩm sinh ở trẻ nhỏ. Túi nilon làm tắc nghẽn cống, rãnh, kênh, rạch, gây ứ đọng nước thải và ngập úng dẫn đến sản sinh ra nhiều vi khuẩn gây bệnh. Ngoài ra, túi nilon còn gây mất mỹ quan và cảnh quan. Ô nhiễm môi trường do chất thải túi nilon hiện được các nhà môi trường gọi là “ô nhiễm trắng”.

Ở nước ta, việc sử dụng tràn lan các loại túi nilon trong các hoạt động sinh hoạt xã hội, chủ yếu và đặc biệt là loại túi siêu mỏng, thể hiện sự dễ dãi của cả người cung cấp cũng như người sử dụng; người bán sẵn sàng đưa thêm một hoặc vài chiếc túi nilon cho người mua khi được yêu cầu; người mua ít khi mang theo vật đựng (túi xách, làn…) vì biết chắc chắn rằng khi mua hàng hóa sẽ có túi nilon kèm theo để xách về.

Hiện chưa có số liệu thống kê chính thức về số lượng túi nilon được sử dụng ở Việt Nam nhưng đã có một số khảo sát, ước tính về số lượng này. Tuy có sự khác nhau về con số nhưng ấn tượng chung là rất lớn và chưa được quản lý ở hầu hết tất cả các khâu của vòng đời túi nilon: từ sản xuất, lưu thông phân phối, sử dụng cho đến thải bỏ, thu gom, xử lý.

Theo một khảo sát của cơ quan môi trường, trung bình một người Việt Nam trong 1 năm sử dụng ít nhất 30 kg các sản phẩm có nguồn gốc từ nhựa. Từ 2005 đến nay, con số này là 35 kg/người/năm. Năm 2000, trung bình một ngày, Việt Nam xả khoảng 800 tấn rác nhựa ra môi trường. Đến nay, con số đó là 2.500 tấn /ngày và có thể còn hơn.

Với số lượng và khối lượng túi nilon được sử dụng và thải bỏ hàng ngày lớn như vậy nhưng việc quản lý chúng trong nhiều năm qua và cho đến nay ở nước ta vẫn đang là vấn đề còn chưa tìm được lời giải hợp lý. Đã có những đề xuất: cấm sử dụng; áp dụng các công cụ kinh tế (thuế, phí…); công cụ giáo dục, nâng cao nhận thức nhưng cũng từ bài học kinh nghiệm sử dụng các biện pháp đó ở các nước cho thấy, hiệu quả của các biện pháp này không cao mà nguyên nhân chính yếu là sự tiện dụng cao và giá cả thấp của túi nilon. Chính điều này đã làm cho sản phẩm túi nilon hiện diện ở khắp nơi trong đời sống xã hội. Sự tiện dụng cao làm cho túi nilon trở thành vật dụng thiết yếu trong sinh hoạt hàng ngày của mỗi người dân. Giá thành, giá cả thấp không chỉ thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng mà còn làm cho việc hạn chế, giảm thiểu, thu gom, sử dụng lại và tái chế túi nilon ít mang ý nghĩa về kinh tế, không có động cơ thúc đẩy.

Các giải pháp công nghệ được đề xuất, kể cả các sản phẩm thay thế sử dụng túi nilon khó phân hủy bằng loại túi thân thiện với môi trường cùng các cuộc vận động “nói không với túi nilon” do các cơ quan quản lý môi trường, các tổ chức xã hội, thậm chí cả các doanh nghiệp nhưng vẫn không làm cho sản xuất và tiêu dùng túi nilon giảm đi mà trái lại, túi nilon vẫn gia tăng, môi trường hàng ngày vẫn phải nhận thêm chất thải túi nilon.

Một thực trạng rất đáng lưu ý là phần lớn người dân, kể cả nhiều nhà sản xuất và phân phối đều đồng tình, ủng hộ việc hạn chế sử dụng túi nilon khó phân hủy trong đời sống xã hội. Xin dẫn ra 2 kết quả điều tra xã hội gần đây về thái độ ứng xử với túi nilon khó phân hủy: một điều tra xã hội với quy mô lớn (toàn quốc) do một tổ chức truyền thông lớn ở nước ta là VnExpress thực hiện và một điều tra với quy mô nhỏ (cộng đồng dân cư) do các phóng viên một tờ báo thực hiện.

Giữa năm 2008, VnExpress thực hiện một điều tra xã hội học “điện tử” với kết quả là “Trong số hơn 25.000 bạn đọc được hỏi, có đến 92% muốn Chính phủ cấm dùng túi nilon hoặc giảm dần vì tác hại của nó”.

Còn cuộc điều tra quy mô nhỏ do các phóng viên một tờ báo thực hiện vào đầu năm 2009 cũng cho kết quả gần như tương tự là có tới 98% người được hỏi đồng tình “Nên sử dụng các loại túi thân thiện môi trường thay cho túi nilon”.

Như vậy, vấn đề chất thải túi nilon ở nước ta hiện đang được quan tâm của các bên liên quan với nhận thức khá tốt và khá rõ trong xã hội về tác hại và tính cấp thiết phải quản lý và xử lý chúng.

2. Một số gợi ý giải pháp chính sách

Về giải pháp chính sách, xin trở lại với loại giải pháp hành chính là cấm lưu hành và sử dụng túi nilon như Trung Quốc hiện được áp dụng từ ngày 1/6/2008. Điều kiện để áp dụng giải pháp cấm đoán thường được nêu là có chế tài, bộ máy giám sát thực thi tốt, có vật dụng thay thế. Xin bổ sung thêm điều kiện nữa về kinh tế, điều kiện này là quan trọng, mang tính chất quyết định vì một khi thu nhập dân cư còn thấp thì hành vi của người tiêu dùng (cả người sản xuất, phân phối) tất yếu hướng nhiều vào loại hàng hóa, dịch vụ giá rẻ. Trong trường hợp túi nilon giá thì rẻ còn được khuyếch đại lên nhiều bởi tính tiện dụng, kết quả là người tiêu dùng thu nhập thấp lựa chọn túi nilon mặc dù nhận thức được tác hại tới môi trường và sức khỏe, sự cấm đoán sẽ ít tác dụng.

Như vậy, đối với chất thải túi nilon nên hướng chủ yếu vào các giải pháp kinh tế. Các loại giải pháp khác (kể cả hành chính) là bổ sung, hỗ trợ. Cần cả 2 loại giải pháp kinh tế là công cụ thị trường và trợ giá.

Về công cụ thị trường, đó là quan hệ cung – cầu và giá cả. Cần tăng cường cung cấp cho thị trường loại túi nilon thân thiện môi trường đồng thời hạn chế sản xuất và cung ứng loại túi nilon khó phân hủy. Năng lực sản xuất loại túi nilon thân thiện môi trường ở nước ta được đánh giá là có khả năng với công nghệ trong nước, đã đưa ra thăm dò thị trường một số năm gần đây nhưng kết quả chưa nhiều vì lý do chưa cạnh tranh được với loại túi nilon khó phân hủy đang thông dụng hiện nay về giá cả. Mặc dù đã có những cố gắng giảm chi phí sản xuất nhưng vẫn còn cao hơn vài chục phần trăm so với sản xuất loại túi nilon khó phân hủy. Công ty ALTA ở TP Hồ Chí Minh đã sản xuất loại bao bì nhựa có thể tự phân hủy (từ 3 tháng đến lâu hơn tùy theo yêu cầu) từ năm 2003, đã đưa ra thăm dò thị trường và đang xuất khẩu mặt hàng này ra nước ngoài. Tuy nhiên, theo người phụ trách kinh doanh Công ty, do giá thành của bao bì nhựa tự hủy cao hơn bao bì nhựa thường từ 15 – 20% nên chưa được các khách hàng trong nước lựa chọn.

Sự trợ giúp này về BVMT phù hợp với chức năng quản lý nhà nước và đã được luật định (Khoản 6, Điều 5; Mục c, khoản 2, Điều 111, Luật Bảo vệ môi trường 2005 và được cụ thể hóa tại Nghị định số 04/2009/NĐ-CP ngày 14/1/2009 về ưu đãi, hỗ trợ hoạt động BVMT). Nhiều nước trên thế giới cũng đang trợ giá cho các bao bì thân thiện môi trường (một số siêu thị ở Thái Lan áp dụng giảm 15 -30% cho những khách hàng dùng túi xách của mình để đựng đồ). Sự trợ giúp này đối với trường hợp loại túi nilon khó phân hủy với giả định giá bán hiện nay ở nước ta khoảng 200 đ/túi thì trợ giúp của Nhà nước (trợ giá) khoảng 15% sẽ là 30 đ/túi. Với mức tiêu dùng hiện nay (khoảng 30 tỷ chiếc/năm) và giả định lộ trình thay thế trong một số năm trước mắt là 10% số lượng mỗi năm thì ước tính mức trợ giá của Nhà nước cho loại túi nilon thân thiện môi trường khoảng gần 100 tỷ đồng mỗi năm.

Cũng có thể đưa vào cân nhắc con số ngân sách sự nghiệp môi trường hàng năm dành cho kiểm soát, bao gồm cả xử lý ô nhiễm môi trường do chất thải và các khoản thu khác từ môi trường (thuế, phí, phạt…) cũng như các nguồn quốc tế (hỗ trợ chính thức và phi chính thức) cho môi trường cùng khả năng trích ra hỗ trợ sản xuất túi nilon thân thiện môi trường để có thêm cơ sở về kinh tế – tài chính cho việc lựa chọn giữa trợ giá với chấp nhận xử lý “theo cuối đường ống” như hiện nay. Cũng lưu ý thêm rằng, sự trợ giá này chỉ diễn ra trong một số năm nhất định để mang tính chất tạo đà vì theo quy luật thị trường, khi thị phần của sản phẩm mới đạt tới tỷ lệ nhất định (thường là điểm “hòa vốn”) thì doanh nghiệp tự cân đối mà không cần tới sự trợ giúp từ bên ngoài.

Theo quy định tại Khoản 3, Nghị định số 04/2009/NĐ-CP thì nguồn kinh phí hỗ trợ giá được lấy từ Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam còn hạn chế về nguồn vốn huy động thì cần thêm nguồn hỗ trợ khác có thể huy động theo quy định của pháp luật. Theo tính toán sơ bộ, bên cạnh khả năng hỗ trợ của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam thì với khoản ngân sách sự nghiệp môi trường hàng năm (1% tổng chi ngân sách – khoảng 5.000 tỷ đồng) và các khoản thu khác từ môi trường cùng các khả năng khác như khoản ngân sách sự nghiệp kinh tế của các Bộ, ngành, địa phương có thể chi cho BVMT, các nguồn quốc tế cho môi trường ước hàng nghìn tỷ đồng nữa thì việc cân nhắc khoản trợ giá khoảng một vài trăm tỷ đồng mỗi năm (trong vài năm) hỗ trợ sản xuất túi nilon thân thiện môi trường chắc không phải là khó khăn.

Các giải pháp khác được tiến hành đồng thời cũng sẽ góp phần hỗ trợ người phân phối và người tiêu dùng lựa chọn sử dụng túi nilon thân thiện môi trường và qua đó tăng nhanh tỷ phần thị trường của loại túi này, giúp giảm dần sự trợ giá cho sản xuất.

Vấn đề chất thải túi nilon khó phân hủy ở nước ta đang và vẫn sẽ còn là nóng với sự tích tụ độ nóng ngày một tiến gần tới điểm “cháy”. Những bức xúc, tác động tiêu cực nhiều mặt từ chất thải túi nilon khó phân hủy không được quản lý tốt đang tăng lên ở tất cả các địa bàn, đặc biệt là những nơi có đông dân cư sinh sống. Việc giải quyết vấn đề chất thải túi nilon khó phân hủy cần được tiến hành với nhiều giải pháp đồng bộ, đồng thời; nhưng khó khăn nhất vẫn là làm sao giảm sử dụng và thay thế bằng loại túi khác thân thiện môi trường. Cách tiếp cận kinh tế nêu trên cung cấp một cách nhìn và cách giải quyết “trọng thị trường”, tập trung vào công cụ kinh tế, đi từ cung cấp ngày càng nhiều hơn loại túi thay thế thân thiện môi trường gắn với sự hỗ trợ kinh tế của Nhà nước mang tính chất tạo đà trong một thời gian nhất định (tiệm cận tới điểm hòa vốn) và đi liền với các công cụ quản lý khác (chính sách, cơ chế tạo hành lang pháp lý thuận lợi, hành chính, giáo dục, nâng cao nhận thức…)

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Báo cáo nghiên cứu đánh giá giữa kỳ dựa trên kết quả Tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010”, H. tháng 5/2009.

2. Luật Bảo vệ môi trường 2005.

3. Nghị định số 04/2009/NĐ-CP ngày 14/1/2009.

4. Tư liệu nghiên cứu của Dự án “Kiểm soát ô nhiễm môi trường do việc sử dụng bao bì khó phân hủy (các loại túi nilon)”, Cục Kiểm soát ô nhiễm, Tổng cục Môi trường, Bộ TN&MT, 2010.

Phụ lục kết quả điều tra xã hội học về  sử dụng túi nilon thường

Kết quả một điều tra xã hội học về sử dụng túi nilon khó phân hủy (2009)


Gia đình bạn có sử dụng túi nilon khi đi chợ, đi mua hàng, đựng đồ đạc không?

- Có: 100%

- Không: 0%

Mỗi ngày gia đình bạn sử dụng hết bao nhiêu túi nilon?

- Dưới 5 cái: 55%

- Từ 6 – 10 cái: 36%

Trên 10 cái: 9%

Bạn có bao giờ nghe nói đến tác hại của túi nilon?

- Biết rất rõ: 56%

- Thỉnh thoảng: 42%

- Chưa bao giờ: 2%

Sau khi mua hàng về, bạn xử lý thế nào với túi nilon?

- Vứt ra sọt rác: 71%

- Rửa sạch để lần sau dùng lại: 19%

Theo bạn, chúng ta có nên sử dụng các loại túi thân thiện môi trường thay cho túi nilon?

- Có 98%

- Không cần thiết: 2%

Nguồn: http://www.tintuconline.com.vn/vn

 

Các tin khác
Đăng nhập
Tên đăng nhập:
Mật khẩu đăng nhập:
Map
MapBox
Tư vấn trực tuyến
SKYPE

Bộ phận kỹ thuật

Bộ phận kinh doanh

khám phá
Quảng cáo
VILAS 246
Vim